BẢN TIN TỔNG HỢP VĂN BẢN MỚI TUẦN 2 THÁNG 6
6/17/202415 phút đọc
1- Công văn số 2256/TCT-KTNB ngày 28/5/2024 về lưu ý trong công tác xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai
Tổng cục Thuế đã có Công văn 4154/TCT-KTNB ngày 14/10/2019 về việc rà soát hồ sơ thực hiện nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất; Công văn 404/TCT-KTNB ngày 18/02/2021 về việc chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương trong công tác xác định nghĩa vụ tài chính tiền sử dụng đất và lệ phí trước bạ; Công văn 540/TCT-KTNB ngày 03/3/2021 về việc rà soát hồ sơ thực hiện nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất.
Tuy nhiên, thời gian qua vẫn còn tình trạng một số Cục Thuế chậm thực hiện xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai đối với những hồ sơ do Văn phòng Đăng ký đất đai chuyển đến.
Về việc này, Tổng cục Thuế yêu cầu Cục Thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện và tăng cường triển khai một số giải pháp sau:
- Chỉ đạo các bộ phận, công chức liên quan đến công tác xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai ngay sau khi nhận được Phiếu chuyển xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai, phải tổ chức rà soát, phân loại các Phiếu chuyển này.
Đối với các Phiếu chuyển không đủ thông tin thì có văn bản đề nghị Văn phòng Đăng ký đất đai bổ sung thông tin theo đúng thời hạn quy định.
- Quán triệt đến từng bộ phận, từng công chức của Cục Thuế có liên quan về việc thực hiện xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai do Văn phòng đăng ký đất đai chuyển đến đúng thời hạn quy định.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với công tác xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai do Văn phòng đăng ký đất đai chuyển đến trong nội bộ Cục Thuế.
Đảm bảo công tác này được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Từ đó, góp phần tích cực vào công tác thu hút đầu tư tại địa phương.
- Báo cáo về Tổng cục Thuế đối với những trường hợp vướng mắc, phức tạp trong quá trình phối hợp với Văn phòng Đăng ký đất đai để xác định nghĩa vụ tài chính của tổ chức để Tổng cục Thuế kịp thời chỉ đạo theo quy định.
2- Công văn số 2452/TCT-CS ngày 7/6/2024 về thuế GTGT
Tại Điều 174, khoản 2 Điều 185 Luật Đất đai năm 2013 đã quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thuê đất trả tiền một lần cho cả thời gian thuê; theo đó, những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có quyền chuyển nhượng, cho. thuê lại quyền sử dụng đất gắn với tài sản trên đất theo quy định của pháp luật về đất đai.
Theo văn bản trình bày của doanh nghiệp, Công ty TNHH CITY FOCUS LIGHTING (bên chuyển nhượng) là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã thuê đất trả tiền một lần cho cả thời gian thuê có ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản trên đất cho bên nhận chuyển nhượng là doanh nghiệp chế xuất (Công ty TNHH Evertie Lighting Việt Nam) thì đề nghị Cục Thuế tỉnh Đồng Nai phối hợp với các cơ quan chức năng (Ban Quản lý Khu Công nghiệp, Sở Tài nguyên và Môi trường) rà soát bản chất hoạt động chuyển nhượng nêu trên có phải là hoạt động cho thuê lại quyền sử dụng đất gắn với tài sản trên đất theo đúng quy định của Luật Đất đai năm 2013 hay không?
Trường hợp hoạt động cho thuê lại quyền sử dụng đất gắn với tài sản trên đất của bên chuyển nhượng cho bên nhận chuyển nhượng thực hiện theo đúng quy định của Luật Đất đai năm 2013, bên nhận chuyển nhượng là Doanh nghiệp chế xuất (Công ty TNHH Evertie Lighting Việt Nam) được áp dụng quy chế doanh nghiệp chế xuất (đất thuê và tài sản gắn liền trên đất theo Hợp đồng chuyển nhượng nằm trong phạm vi diện tích đất sử dụng của Doanh nghiệp chế xuất được quy định tại Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư do Ban Quản lý các khu công nghiệp Đông Nai cấp) và bên nhận chuyển nhượng đáp ứng các điều kiện về kiểm tra, giám sát hải quan đối với khu phi thuế quan là DNCX tại địa chỉ của nhà xưởng trên đất theo xác nhận của Chi Cục Hải quan Nhơn Trạch và tài sản chuyển nhượng không thuộc đối tượng phải làm thủ tục hải quan thì thuộc đối tượng áp dụng thuế suất thuế GTGT 0% nếu đáp ứng các điều kiện về hợp đồng, hóa đơn và chứng từ thanh toán qua ngân hàng theo quy định.
3- Công văn số 2498/TCT-CS ngày 11/6/2024 về ghi thu, ghi chi số tiền nhận chuyển nhượng QSDÐ
- Tại Khoản 4 Điều 12 Nghị định số 46/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước quy định:
Điều 12. Xác định tiền thuê đất, thuê mặt nước
- Tại Điều 5, Khoản 5 Điều 6 Thông tư số 77/2014/TT-BTC ngày 16/6/2014 của Bộ Tài chính hướng dẫn một số điều của Nghị định số 46/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước quy định:
a) Trường hợp người thuê đất lựa chọn hình thức thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê thì số tiền đã trả để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác định theo quy định tại Khoản 4, Khoản 5 Điều 4 Nghị định số 46/2014/NĐ- CP.
b) Trường hợp người thuê đất lựa chọn hình thức thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm, số tiền đã trả để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên được quy đổi ra thời gian đã hoàn thành nghĩa vụ nộp tiền thuê đất tại thời điểm được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chuyển mục đích sử dụng đất.
Việc quy đổi số tiền này ra số năm, tháng hoàn thành nghĩa vụ nộp tiền thuê đất trong trường hợp lựa chọn hình thức thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm được thực hiện theo công thức sau:...
Điều 6. Xử lý tiền bồi thường, giải phóng mặt bằng
5. Cơ quan tài chính thực hiện ghi thu, ghi chỉ số tiền bồi thường, giải phóng mặt bằng mà người được Nhà nước cho thuê đất đã tự nguyện ứng trước được trừ vào tiền thuê đất, thuê mặt nước phải nộp theo quy định tại pháp luật về ngân sách nhà nước.”
Căn cứ quy định trên, pháp luật về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 chỉ có quy định về việc ghi thu, ghi chi đối với trường hợp người được Nhà nước cho thuê đất đã tự nguyện ứng trước tiền bồi thường, giải phóng mặt bằng và được trừ vào tiền thuê đất phải nộp; không có quy định ghi thu, ghi chỉ đối với trường hợp tổ chức kinh tế nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hợp pháp của tổ chức, cá nhân để thực hiện dự án đầu tư mà phải chuyển mục đích sử dụng đất và phải nộp tiền thuê đất theo quy định tại Điều 57, Điều 73 Luật Đất đai năm 2013.
Đề nghị Cục Thuế tỉnh Quảng Ngãi căn cứ quy định trên và hồ sơ cụ thể để có ý kiến với Sở Tài chính thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Trường hợp còn vướng mắc trong việc ghi thu, ghi chi đối với số tiền nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì đề nghị Cục Thuế tỉnh Quảng Ngãi có ý kiến để Sở Tài chính báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi có văn bản gửi Bộ Tài chính kèm theo hồ sơ cụ thể để được hướng dẫn thực hiện theo quy định của pháp luật.
4- Công văn số 2500/TCT-CS ngày 11/6/2024 về chính sách miễn tiền thuê đất
- Tại điểm c Khoản 10 Điều 19 Nghị định số 46/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ được sửa đổi, bổ sung tại Khoản 6 Điều 3 Nghị định số 135/2016/NĐ-CP ngày 09/9/2016 quy định về miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước:
“10. Nhà đầu tư được Nhà nước cho thuê đất để đầu tư xây dựng, kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao được miễn tiền thuê đất sau thời gian được miễn tiền thuê đất của thời gian xây dựng cơ bản quy định tại Khoản 2 Điều này, cụ thể như sau:
..c) Toàn bộ thời gian thuê đất nếu đầu tư tại địa bàn cấp huyện thuộc Danh mục địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của pháp luật về đầu tư. ”
- Tại Khoản 1 Điều 28 Nghị định số 68/2017/NĐ-CP ngày 25/5/2017 của Chính phủ về quản lý, phát triển cụm công nghiệp quy định:
“Điều 28. Ưu đãi đầu tư đối với dự án đầu tư kinh doanh hạ tầng kỹ thuật cụm công nghiệp
1. Dự án đầu tư kinh doanh hạ tầng kỹ thuật cụm công nghiệp được miễn tiền thuê đất 11 năm, được xem xét vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước với mức không quá 70% tổng mức đầu tư và hưởng các ưu đãi khác theo quy định của pháp luật. Trường hợp nhiều mức ưu đãi thì áp dụng mức ưu đãi cao nhất. ”
Căn cứ các quy định nêu tại công văn, Công ty Cổ phần Thương mại và Sản xuất CaCO3 Quang Sơn thực hiện Dự án Đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng kỹ thuật Cụm Công nghiệp Quang Sơn 1 (khu A) tại địa bàn huyện Đồng Hỷ thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn chỉ được áp dụng mức ưu đãi miễn tiền thuê đất cho toàn bộ thời gian thuê đất theo điểm c Khoản 10 Điều 19 Nghị định số 46/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ được sửa đổi, bổ sung tại Khoản 6 Điều 3 Nghị định số 135/2016/NĐ-CP ngày 09/9/2016 sau khi làm đủ các thủ tục để được miễn, giảm tiền thuê đất (trừ trường hợp công ty lựa chọn mức ưu đãi khác trong các mức ưu đãi được hưởng).
Ngoài ra, pháp luật đất đai năm 2013 không quy định việc giao đất nhiều lần; do đó, đề nghị Cục Thuế tỉnh Thái Nguyên phối hợp với cơ quan tài nguyên, môi trường Tỉnh rà soát việc giao đất, cho thuê đất của Dự án để đảm bảo thực hiện theo quy định của pháp luật.
5- Công văn số 2502/TCT-DNL ngày 11/6/2024 về khai bổ sung hồ sơ khai thuế giá trị gia tăng.
(1) Về kê khai bổ sung và khấu trừ thuế
Căn cứ quy định nêu tại công văn, dự án của IGPV đã đi vào sản xuất thương mại từ ngày 01/01/2021 nên số thuế GTGT đầu vào của dự án tìm kiếm, thăm dò và phát triển mỏ dầu khí trong giai đoạn đầu tư chưa được hoàn thì được kê khai chuyển sang giai đoạn sản xuất, kinh doanh để bù trừ với số thuế GTGT phải nộp.
Công ty thực hiện khai bổ sung tờ khai mẫu số 02/GTGT từ kỳ tính thuế Q4/2019 đến kỳ Q4/2020, kê khai giảm chỉ tiêu [30] “Thuế GTGT đầu vào còn lại của dự án đầu tư đề nghị hoàn” để tăng số thuế GTGT đầu vào của dự án đầu tư chưa được hoàn chuyển kỳ sau. Tại kỳ tính thuế Q4/2020, công ty kết chuyển số thuế GTGT đầu vào chưa được hoàn của dự án đầu tư vào chỉ tiêu [31] “GTGT đầu vào của dự án đầu tư chưa được hoàn bàn giao cho doanh nghiệp mới thành lập trong kỳ” của tờ khai mẫu số 02/GTGT để chuyển sang tờ khai 01/GTGT của kỳ tiếp theo kỳ kết thúc dự án đầu tư.
Công ty thực hiện khai tờ khai mẫu số 01/GTGT (dành cho hoạt động sản xuất kinh doanh) tại kỳ tính thuế hiện tại, khai số thuế GTGT mua vào của dự án đầu tư chưa được hoàn nêu trên tại chỉ tiêu [38] “Điều chỉnh tăng số thuế GTGT còn được khấu trừ của các kỳ trước” đề bù trừ với số thuế phải nộp của hoạt động sản xuất kinh doanh theo quy định tại Điều 47 Luật Quản lý thuế và khoản 4 Điều 7 Nghị định số 126/2020/NĐ-CP.
(2) Về mẫu biểu kê khai thuế bổ sung
- Tại điểm b khoản 4 Điều 7 Nghị định số 126/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định việc khai bổ sung hồ sơ khai thuế;
- Tại khoản 2 Điều 87 Thông tư số 80/2021/TT-BTC ngày 29/9/2021 của Bộ Tài chính hướng dẫn mẫu biểu hồ sơ khai thuế.
Căn cứ quy định nêu trên thì đối với hồ sơ khai thuế bổ sung trước ngày 1/01/2022, người nộp thuế thực hiện kê khai bổ sung theo mẫu biểu gần nhất đã nộp cho cơ quan thuế cùng tờ khai bổ sung mẫu số 01/KHBS và bản giải trình khai bổ sung mẫu số 01-1/KHBS theo Thông tư số 80/2021/TT-BTC.
6- Công văn số 2509/TCT-DNNCN ngày 12/6/2024 về chính sách thuế đối với trường hợp tặng cho quyền sử dụng đất có người đại diện.
Tại Khoản 4 Điều 4 Nghị Định số 65/2013/NĐ-CP quy định thu nhập được miễn thuế:
“4. Thu nhập từ nhận thừa kế, quà tặng là bất động sản (bao gồm cả nhà ở, công trình xây dựng hình thành trong tương lai theo quy định của pháp luật về kinh doanh bất động sản) giữa: Vợ với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chẳng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; Ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị em ruột với nhau.”
* Căn cứ pháp lý về Luật dân sự
- Điều 187. Quyền chiếm hữu của người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản:
“1. Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản thực hiện việc chiếm hữu tài sản đó trong phạm vì, theo cách thức, thời hạn do chủ sở hữu xác định.
2. Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản không thể trở thành chủ sở hữu đối với tài sản được giao theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này. ”
- Điều 195. Quyền định đoạt của người không phải là chủ sở hữu
“Người không phải là chủ sở hữu tài sản chỉ có quyền định đoạt tài sản theo ủy quyền của chủ sở hữu hoặc theo quy định của luật.”
Căn cứ những cơ sở pháp lý nêu trên căn cứ hồ sơ Cục Thuế tỉnh Long An cung cấp thì cá nhân có thu nhập từ nhận quà tặng là bất động sản thực hiện kê khai nộp thuế khi nhận thu nhập. Trường hợp Ông Của Bà Ái thực hiện cho tặng bất động sản cho Ông Chương thông qua hoạt động ủy quyền mà Ông Của Bà Ái không có quan hệ huyết thống với Ông Chương do vậy không đủ cơ sở miễn thuế theo quy định tại Điều 4 Nghị định số 65/2013/NĐ-CP.